Những điều cần biết về vắc xin Uốn ván - Bạch hầu (Td)
Lượt xem: 884
Để tăng tỷ lệ miễn dịch phòng bệnh bạch hầu, uốn ván trong cộng đồng, chủ động phòng ngừa dịch bệnh, việc tiếp tục duy trì triển khai vắc xin Td cho trẻ 7 tuổi tại các địa bàn nguy cơ là hết sức cần thiết. Ngày 24/9/2024, Cục Y tế Dự phòng - Bộ Y tế đã ban hành Công văn số 940/DP-TC ngày 24/9/2024 về việc triển khai vắc xin uốn ván - bạch hầu (Td) trong chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) năm 2024. Việc tiêm vắc xin Td sẽ được thực hiện tại trường học hoặc tại cơ sở y tế hay tiêm chủng lưu động ở các địa bàn đi lại khó khăn, vùng sâu, vùng xa đảm bảo sử dụng vắc xin tiêm chủng an toàn, hiệu quả, đúng mục đích.

Tiêm chủng là biện pháp phòng bệnh bạch hầu, uốn ván có hiệu quả nhất

Uốn ván, bạch hầu hai bệnh truyền nhiễm nguy hiểm

Bệnh bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do trực khuẩn bạch hầu gây nên. Đặc điểm lâm sàng của bệnh là tổn thương chủ yếu ở vùng mũi, họng, thanh quản… với những giả mạc kèm theo những biểu hiện nhiễm độc nặng (thường là nhiễm độc thần kinh và viêm cơ tim) do ngoại độc tố bạch hầu. Bệnh lây chủ yếu qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp (ho, hắt hơi, nói chuyện…) thông qua dịch tiết từ mũi, họng của bệnh nhân; đôi khi có thể lây gián tiếp qua đồ dùng, quần áo, thức ăn… bị ô nhiễm mầm bệnh. Đối tượng mắc đa số là trẻ dưới 15 tuổi nhất là trẻ từ 1-9 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh cao ở trẻ chưa được tiêm vắc xin phòng bệnh bạch hầu có biểu hiện lâm sàng ở các thể như bạch hầu họng và bạch hầu thanh quản với các biểu hiện như có giả mạc thường màu trắng ngà hay trắng xám, dính chặt vào niêm mạc ở phía dưới, khi bóc dễ chảy máu, có xu hướng phát triển và lan rộng rất nhanh. Ngoài ra còn có hội chứng nhiễm độc, bệnh nhân lừ đừ, biếng ăn, da xanh, sổ mũi, nổi hạch cổ, hạch góc hàm làm cổ bạnh ra. Đặc biệt bạch hầu ở thanh quản có những biến chứng nguy hiểm và có thể gây tử vong cho trẻ, biểu hiện trẻ khàn tiếng, khó thở và ngạt, khi đó trẻ lịm dần bất động, tím tái rồi tử vong. Ngoại độc tố vi khuẩn bạch hầu còn gây biến chứng liệt hầu họng làm trẻ khó nuốt dễ bị sặc, liệt các chi, rối loạn nhịp tim dễ tử vong vì truỵ tim mạch.

Uốn ván cũng là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do trực khuẩn uốn ván gây nên và ngoại độc tố hướng thần kinh của nó. Bệnh lây qua da và niêm mạc bị tổn thương. Đặc điểm lâm sàng là một trạng thái co cứng cơ liên tục và có những cơn giật cứng. Khởi đầu là những cơn co cứng cơ nhai, sau lan ra các cơ mặt, thân mình và tứ chi. Nguồn truyền bệnh uốn ván là đất và các đồ vật bị nhiễm bẩn có nha bào uốn ván xâm nhập vào vết thương kín, vết thương sâu và các vết thương dập nát có môi trường kỵ khí. Trẻ dưới 5 tuổi và người lớn tuổi thường bị bệnh nặng. Tỷ lệ tử vong cao, khoảng từ 30-50%. Biểu hiện điển hình của bệnh uốn ván là co cứng, bắt đầu là cơ nhai (cứng hàm) rồi đến cơ mặt, cơ gáy, cơ lưng, cơ bụng, cơ chi dưới (duỗi), cuối cùng là cơ chi trên (co quắp). Sự co cứng liên tục các cơ toàn thân làm cho bệnh nhân có cảm giác đau nhức. Ngoài ra người bệnh còn có biểu hiện co giật cứng toàn thân xảy ra sau một kích thích (đụng chạm, ánh sáng, tiếng ồn...). Khi co thắt các cơ hầu họng bệnh nhân khó nuốt, co thắt cơ thanh quản gây nghẹt thở, tím tái, ngừng thở. Đối với uốn ván sơ sinh, trẻ sơ sinh nào bú và khóc bình thường trong 2 ngày đầu, sau đó không bú trong khoảng ngày thứ 3 đến ngày thứ 28 ngày và có các biểu hiện như: Trẻ bị co giật hoặc co cứng khi bị kích thích nhẹ như ánh sáng, tiếng động, khi sờ vào trẻ hoặc trẻ có dấu hiệu co cứng với bất kỳ các dấu hiệu như: cứng hàm, tay hoặc chân co quắp, môi mím chặt, lưng uốn cong. Uốn ván sơ sinh có tỷ lệ tử vong rất cao.

Từ năm 2005, Việt Nam loại trừ bệnh uốn ván sơ sinh và liên tục duy trì thành quả này cho đến nay. Tuy nhiên, hàng năm vẫn ghi nhận khoảng 35 trường hợp mắc uốn ván sơ sinh rải rác ở nhiều địa phương.

Về bạch hầu, sau nhiều năm liên tục không có ca tử vong do bệnh này, những năm gần đây, hàng năm nước ta đều ghi nhận trường hợp tử vong. Số ca mắc bệnh chủ yếu ở nhóm trẻ lớn (từ 10 tuổi trở lên) và người lớn, trong đó 85% trường hợp mắc bệnh có tiền sử chưa tiêm chủng, chưa tiêm đủ mũi vắc xin hoặc không rõ tiền sử tiêm chủng.

Tầm quan trọng của việc tiêm vắc xin uốn ván, bạch hầu

 Vắc xin uốn ván, bạch hầu hay còn gọi là vắc xin Td. Vắc xin này kết hợp từ giải độc tố uốn ván và giải độc tố bạch hầu tinh chế và hấp phụ bằng Aluminium phosphate. Tiêm chủng là biện pháp phòng bệnh bạch hầu, uốn ván có hiệu quả nhất. Để phòng bệnh, trẻ dưới 1 tuổi cần được tiêm đủ 3 liều vắc xin phòng bệnh và khi đủ 18 tháng sẽ tiêm thêm một mũi vắc xin DPT4 riêng để phòng bệnh uốn ván sơ sinh, phụ nữ có thai cần được tiêm đủ liều vắc xin phòng uốn ván.

Mặc dù hiệu quả bảo vệ của vắc xin cao (lên đến 97%), nhưng kháng thể trong cơ thể sẽ giảm dần theo thời gian. Đến 7 tuổi, sự miễn dịch đối với bạch hầu, uốn ván của cơ thể đã suy giảm khá nhiều từ lần được tiêm phòng trước đó, nếu không tiêm nhắc lại vẫn có khả năng mắc bệnh. Vì vậy, để tăng tỷ lệ miễn dịch phòng bệnh uốn ván, bạch hầu trong cộng đồng, chủ động phòng ngừa dịch bệnh, ngoài tiêm chủng vắc xin uốn ván, bạch hầu cho trẻ em, việc triển khai chiến dịch tiêm bổ sung vắc xin Td cho trẻ 7 tuổi tại các địa bàn nguy cơ là hết sức cần thiết, góp phần củng cố miễn dịch của trẻ để chủ động phòng bệnh uốn ván và bạch hầu.

Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), các quốc gia thực hiện lịch tiêm 3 mũi vắc xin uốn ván bổ sung cho trẻ đã được tiêm 3 mũi cơ bản trước 1 tuổi, khi trẻ từ 12 - 23 tháng, 4 - 7 tuổi và 9 - 15 tuổi. Cũng theo WHO, để chủ động phòng bệnh bạch hầu hiệu quả, các quốc gia cần tiêm vắc xin có thành phần bạch hầu cho trẻ em với lịch tiêm chủng 6 mũi lần lượt là trước 1 tuổi tiêm 3 mũi, lúc 12 - 23 tháng tiêm mũi 4, lúc 4 - 7 tuổi tiêm mũi 5 và khi 9 - 15 tuổi tiêm mũi 6. Các nước nên triển khai vắc xin phối hợp uốn ván - bạch hầu giảm liều thay vì dùng vắc xin bạch hầu đơn giá sẽ giúp phòng hiệu quả hai bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.

Vắc xin Td phòng bệnh uốn ván, bạch hầu do Viện Vắc xin và Sinh phẩm y tế (IVAC) sản xuất, được cấp phép lưu hành từ năm 2012. Vắc xin Td có tính an toàn cao, tuy nhiên có thể gặp một số phản ứng thông thường sau tiêm. Các phản ứng này phần lớn thường nhẹ và tự khỏi. Trong chương trình tiêm chủng, có hơn một triệu liều vắc xin Td được sử dụng cho công tác phòng chống dịch song không ghi nhận phản ứng nghiêm trọng sau tiêm.

Liều tiêm vắc xin Td

Liều tiêm là 0,5ml

- Đối với trẻ 7 tuổi trở lên mà trước đó đã được tiêm phòng cơ bản, đủ liều phòng bạch hầu và uốn ván thì tiêm nhắc lại 1 liều vào lứa tuổi thứ 7. Sau 10 năm tiêm phòng lại 1 lần để củng cố miễn dịch.

- Với trẻ từ 7 tuổi trở lên nhưng trước đó chưa được tiêm vắc-xin phòng uốn ván, bạch hầu, thì cần tiêm 3 mũi. Mũi thứ 2 phải cách mũi thứ nhất 1 tháng. Mũi 3 cách mũi 2 khoảng 6 tháng. Sau nó nếu cần thiết thì cũng 10 năm tiêm nhắc lại 1 lần.
Trường hợp nào không nên tiêm

- Không tiêm nếu như trẻ có phản ứng mạnh ở liều tiêm trước với vắc xin có thành phần bạch hầu, uốn ván

- Không tiêm vắc-xin Td khi bị nhiễm trùng cấp tính.

- Không tiêm vắc xin Td cho trẻ đã được tiêm vắc xin có chứa thành phần uốn ván hoặc bạch hầu trong thời gian 1 tháng trước khi triển khai tiêm bổ sung vắc xin Td.

- Không tiêm đường bắp cho trẻ bị rối loạn chảy máu hoặc giảm tiểu cầu.
Theo dõi sau khi tiêm

- Sau khi tiêm cho trẻ ở lại 30 phút theo dõi tại điểm tiêm chủng nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho tiêm chủng.

- Không đắp bất cứ thứ gì vào vị trí tiêm.

- Tiếp tục theo dõi trẻ tại nhà ít nhất 24 giờ sau tiêm chủng để phát hiện các biểu hiện bất thường của trẻ để đưa đến cơ sở y tế điều trị kịp thời.

Để nâng cao hiệu quả công tác tiêm chủng, tạo miễn dịch tốt trong cộng đồng, đồng thời duy trì miễn dịch, bảo vệ trẻ lâu dài, các bậc phụ huynh cần chủ động phối hợp với nhà trường và ngành y tế để đưa trẻ tới các điểm tiêm trên và đảm bảo cho tất cả các trẻ 7 tuổi đều được tiêm một mũi vắc xin Td trong chiến dịch để phòng bệnh uốn ván và bạch hầu.

Mai Hoa (St)

 

Thông tin mới nhất
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tháng hiện tại: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Đăng nhập