Trước tình hình dịch bệnh Bạch hầu ở các tỉnh Điện Biên, Hà Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang liên tiếp ghi nhận ca mắc, đã có nhiều người tử vong. Bạch hầu là bệnh lý lây lan rất nhanh và đang có diễn biến phức tạp, đến nay ghi nhận 65 ca mắc, trong đó có 3 trường hợp tử vong. Tất cả những trường hợp này đều không được tiêm đầy đủ vắc xin phòng bệnh, thường xảy ra ở các khu vực vùng sâu, vùng xa nơi có tỷ lệ tiêm chủng thấp.
Tiêm chủng vắc
xin phối hợp phòng bệnh Bạch hầu tại các điểm tiêm chủng Nhà Văn hoá xóm Nà
Sài, xã Thái Học, huyện Bảo Lâm.
Bệnh Bạch hầu là bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc cấp tính do vi khuẩn
Bạch hầu gây nên; bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ, tuy nhiên cũng có thể gặp ở người
lớn nếu không có miễn dịch. Bệnh lây truyền dễ dàng qua đường hô hấp hoặc qua
tiếp xúc trực tiếp với các dịch tiết từ niêm mạc mũi họng của bệnh nhân hoặc
người lành mang trùng khi ho, hắt hơi, đặc biệt trong khu vực dân cư đông đúc
hoặc nơi có điều kiện vệ sinh không đảm bảo. Bệnh có thể gây ra những biến chứng
nguy hiểm như: viêm cơ tim, viêm dây thần kinh, suy hô hấp,... thậm chí có thể
dẫn đến tử vong chỉ trong vòng 6 - 10 ngày nhiễm bệnh nếu không được điều trị kịp
thời.
Bệnh Bạch hầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn Bạch hầu
gây ra; bệnh hay gặp chủ yếu ở nhóm trẻ dưới 15 tuổi không được tiêm vắc xin,
tuy nhiên cũng có thể gặp ở trẻ lớn hay người lớn nếu không có miễn dịch. Bệnh
lây truyền từ người sang người qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp với các dịch
tiết từ niêm mạc mũi họng của bệnh nhân hoặc người lành mang trùng bắn ra khi
ho, hắt hơi. Ngoài ra, bệnh cũng có thể lây qua tiếp xúc với đồ vật bị ô nhiễm
các chất tiết của người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu.
Khi mắc bệnh Bạch hầu, người bệnh có các biểu hiện như sau:
Ban đầu sốt nhẹ, đau họng, ho, chảy nước mũi, khàn tiếng.
Sau 2 - 3 ngày thì xuất hiện giả mạc ở amydal hoặc thành sau họng.
Giả mạc Bạch hầu có đặc điểm màu trắng ngà hoặc xám dính chặt vào xunh quanh tổ
chức viêm, nếu bóc ra sẽ bị chảy máu. Đây là dấu hiệu quan trọng để phát hiện bệnh.
Người bệnh có thể có dấu hiệu khó thở, khó nuốt. Bệnh có thể qua khỏi hoặc trở
nên trầm trọng hơn.
Trường hợp bệnh nặng có thể không có biểu hiện sốt cao nhưng có dấu
hiệu sưng to cổ do nổi hạch ở góc hàm, khàn tiếng, khó thở, rối loạn nhịp tim.
Biểu hiện bệnh có thể từ nhẹ đến nặng. Tùy vào mức độ của bệnh có
thể có một số những biến chứng nặng. Trong đó, biến chứng thường gặp nhất là
viêm cơ tim và viêm dây thần kinh.
Người mắc bệnh Bạch hầu thể nặng khi không được phát hiện và điều
trị kịp thời sẽ dẫn đến nhiễm độc thần kinh, làm tê liệt thần kinh sọ não, thần
kinh vận động ngoại biên, viêm cơ tim và tử vong đột ngột do trụy tim mạch.
Đối với người bệnh nghi mắc bệnh Bạch hầu cần được phát hiện sớm
và đưa ngay tới cơ sở điều trị để được chăm sóc, cách ly tránh lây lan.
Bệnh Bạch hầu là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Tuy nhiên chúng ta
có thể chủ động phòng bệnh Bạch hầu bằng cách cần đưa trẻ đi tiêm chủng đầy đủ
các mũi tiêm chủng theo lịch trong chương trình Tiêm chủng mở rộng.
Để chủ động phòng chống bệnh Bạch hầu, Cục Y tế dự phòng khuyến
cáo người dân cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
Đưa trẻ đi tiêm chủng vắc xin phối hợp phòng bệnh Bạch hầu tại các
Trạm Y tế, các cơ sở tiêm chủng dịch vụ đầy đủ, đúng lịch theo hướng dẫn của Bộ
Y tế.
Mũi thứ 1: Tiêm khi trẻ
từ đủ 2 tháng tuổi.
Mũi thứ 2: Khi trẻ đủ 3
tháng tuổi.
Mũi thứ 3: Khi trẻ đủ 4
tháng tuổi.
Mũi thứ 4: Khi trẻ đủ
18 tháng tuổi.
Mũi bổ sung: Khi trẻ 7 tuổi.
Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng; che miệng khi ho hoặc hắt hơi;
giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày;
hạn chế tiếp xúc với người mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.
Đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh
sáng.
Khi có dấu hiệu mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh Bạch hầu phải được
cách ly và đưa đến cơ sở y tế để được khám, điều trị kịp thời.
Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống thuốc
phòng và tiêm vắc xin phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của cơ quan y tế.
Ngọc
Anh