Bệnh lao là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn lao
(Mycobacterium- Tubercurosis) gây nên. Bệnh lao có thể gặp ở tất cả các bộ phận
trong cơ thể, trong đó lao phổi là thể lao phổ biến nhất (chiếm 80 - 85% tổng
số ca bệnh) và là nguồn lây chính cho người xung quanh.
Ảnh minh hoạ (Trọng Thụ)
Bệnh lao lây truyền chủ yếu qua đường hô hấp do người lành hít phải các
hạt khí dung có chứa vi khuẩn lao của người mắc lao phổi giai đoạn tiến triển,
ho khạc, hắt hơi ra ngoài không khí. Vì vậy để dự phòng bệnh lao cần áp dụng
các biện pháp nhằm giảm nguy cơ nhiễm vi khuẩn lao và giảm nguy cơ từ nhiễm lao
sang bệnh lao. Trong đó việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời cho người bệnh
lao là biện pháp tốt nhất nhằm cắt giảm nguồn lây lao trong cộng đồng.
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới, mặc dù đã đạt
được một số thành tựu đáng kể trong công tác chống lao trong thời gian qua,
nhưng bệnh lao vẫn là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 2 trong các bệnh
nhiễm trùng, với khoảng 10 triệu bệnh nhân lao mới hàng năm và khoảng 1,4 triệu
người tử vong do lao trên toàn cầu hàng năm, trong đó có khoảng 208.000 người
chết do lao trong số những người nhiễm HIV.
Việt
Nam hiện vẫn là nước có gánh nặng bệnh lao cao, là một trong 30 nước có gánh nặng bệnh lao kháng đa thuốc
cao nhất thế giới. Ước tính tại Việt Nam mỗi năm có 170.000 ca mắc mới (báo cáo
WHO 2020). Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh nhân được phát hiện và báo cáo mới chỉ đạt
60%, có nghĩa là có tới 40% số bệnh nhân lao chưa được phát hiện và hoặc được
phát hiện nhưng chưa được báo cáo trong cộng đồng. Trong đó, 63% bệnh nhân lao thường, 98% bệnh nhân lao kháng thuốc và gia
đình đối mặt với những chi phí cho việc chẩn đoán và điều trị bệnh lao vượt quá
20% thu nhập hàng năm của cả hộ gia đình. 70% người mắc lao ở trong độ tuổi
lao động.
Người nghi lao phổi có thể xác định qua
các triệu chứng thường gặp như:
Ho kéo
dài trên 2 tuần (ho khan, ho có đờm, ho ra máu) là triệu chứng nghi lao quan
trọng nhất. Ngoài ra còn kèm theo các triệu chứng như: gầy sút cân, kém ăn, mệt
mỏi; sốt nhẹ về chiều, ra mồ hôi trộm ban đêm; đau ngực, đôi khi khó thở.
Các biến chứng do bệnh lao gây ra bao gồm:
Ở phổi:
biến chứng do lao gây ra là suy hô hấp, tâm phế mãn, tràn khí màng phổi, tràn
mủ màng phổi, giãn phế quản, giãn phế nang.
Ở Não - màng não: gây liệt chi, liệt 1 nửa người, động kinh, rối loạn
tiền đình.
Ở xương
khớp: hủy hoại xương khớp (cột sống, khớp háng, khớp gối...).
Để
hạn chế chế các biến chứng do bệnh lao gây ra, ngay khi phát hiện ra
mình có dấu hiệu nhiễm lao, người bệnh cần đến cơ sở y tế gần nhất để được khám
và chẩn đoán chính xác. Việc điều trị lao phải được tiến hành càng sớm càng
tốt. Thuốc điều trị lao được Nhà nước cấp miễn phí.
Nguyên tắc điều trị bệnh lao
Trong điều trị lao, bệnh
nhân lao tuyệt đối không được bỏ thuốc ngắt quãng dù chỉ 1 ngày vì đó là khoảng
thời gian mà vi khuẩn lao hồi phục và tấn công trở lại. Phối hợp các thuốc chống lao: mỗi
loại thuốc chống lao có tác dụng khác nhau trên vi khuẩn lao (diệt khuẩn, kìm
khuẩn), do vậy phải phối hợp ít nhất 3 loại thuốc chống lao trong giai đoạn tấn
công và ít nhất 2 loại thuốc trong giai đoạn duy trì.
Dùng thuốc đúng liều: mỗi loại thuốc
có một nồng độ tác dụng nhất định; nếu dùng liều thấp sẽ không hiệu quả và dễ
tạo ra các chủng vi khuẩn kháng thuốc, dùng liều cao dễ gây tai biến. Dùng
thuốc đều đặn: các thuốc chống lao phải được uống cùng một lần vào thời gian
nhất định trong ngày và uống trước và sau bữa ăn ít nhất 2 giờ để thuốc được
hấp thu tốt nhất. Phải dùng thuốc đủ thời
gian và theo 2 giai đoạn tấn công và duy trì: giai đoạn tấn công kéo dài 2, 3
tháng nhằm tiêu diệt nhanh số lượng lớn
vi khuẩn để ngăn chặn các đột biến kháng thuốc. Giai đoạn duy trì kéo dài 4 - 6
tháng nhằm tiêu diệt triệt để các vi khuẩn Lao để tránh tái phát.
Trong suốt thời gian điều
trị, bệnh nhân không tự ngưng thuốc hoặc bỏ thuốc vì uống thuốc không đều đặn,
lúc uống sáng, lúc tối, nhớ lúc nào uống lúc nấy... sẽ giảm hiệu quả điều
trị. Vi khuẩn lao rất dễ kháng thuốc lao. Nồng độ thuốc diệt vi khuẩn lao không
đủ hiệu lực sẽ tạo cho vi khuẩn lao kháng thuốc, gây khó khăn cho công tác điều
trị về sau. Ngoài ra còn tạo nguồn vi khuẩn lao kháng thuốc lây
lan cho người thân và cho cộng đồng. Trong quá trình điều trị có thể có
tác dụng phụ của thuốc lao xảy ra. Nhẹ: nổi mề đay, ngứa, mệt mỏi, đau nhức các
khớp lớn (hội chứng giả gút). Nặng: sốc phản vệ, viêm gan, vàng da, đau bụng
nôn ói, viêm trợt da. Nếu có những dấu hiện trên, người bệnh nên báo ngay cho
bác sĩ điều trị biết để có hướng xử trí.
Dự
phòng bệnh lao
Bệnh lao là một bệnh lây truyền, lây chủ yếu qua
đường hô hấp từ người bệnh lao phổi có vi khuẩn lao trong đờm sang người lành
khi tiếp xúc, tuy nhiên bệnh lao có thể phòng và điều trị được.
Phòng bệnh lao là áp dụng các biện pháp nhằm giảm nguy
cơ nhiễm vi khuẩn lao: Giảm nguy cơ nhiễm lao bằng thay đổi hành
vi của người bệnh (vệ sinh hô hấp) nhằm làm giảm các hạt nhiễm khuẩn ra môi
trường, dùng khẩu trang hoặc ít nhất có khăn che miệng khi tiếp xúc nói chuyện
với người khác, khi hắt hơi, ho, khạc đờm vào
giấy hoặc ca cốc, bỏ đúng nơi quy định, rửa tay xà phòng thường xuyên; cần phơi chăn, chiếu, vật dụng của bệnh nhân
lao ra nắng mỗi ngày. Nhà cửa cần thoáng mát, sạch sẽ; tiêm phòng vắc xin BCG: giúp cho cơ thể hình thành miễn dịch chống lại
bệnh lao khi bị nhiễm lao. Người tiếp xúc, đặc biệt là trẻ em dưới 5 tuổi tiếp xúc với
bệnh nhân lao phổi cần được đưa đến cở y tế khám lao và điều trị lao tiềm ẩn. Việc điều trị lao tiềm ẩn có thể ngăn ngừa
tới 90% nguy cơ phát triển bệnh lao.
Đối với
những người bị tiểu đường, suy dinh dưỡng, người có HIV/AIDS, người hút thuốc
lá, người tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây, người
sử dụng các thuốc giảm miễn dịch kéo dài như: Corticoid, hóa chất điều trị ung
thư… rất dễ bị bệnh lao, do đó phải thường xuyên khám sức khoẻ định kỳ để phát
hiện sớm bệnh lao.
Bệnh lao có thể chữa khỏi
hoàn toàn nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đúng phác đồ, đủ thời
gian. Thuốc điều trị bệnh lao được cấp miễn phí. Người bệnh không được tự ý bỏ
điều trị vì như vậy bệnh không khỏi mà còn sinh ra lao kháng thuốc, điều trị
càng khó khăn. Trong quá trình điều trị người bệnh cần thực hiện nguyên tắc
đúng - đủ - đều (đúng phác đồ; đủ thuốc, đủ thời gian; đều đặn hàng ngày).
Mai Hoa