Nhồi máu cơ tim đã trở thành căn bệnh phổ biến tại
Việt Nam. Mỗi năm có hàng trăm nghìn bệnh nhân nhập viện vì nhồi máu cơ tim tại
các bệnh viện trên toàn quốc. Dù nhồi máu cơ tim là căn bệnh nguy hiểm, nhưng nếu
chúng ta biết được các dấu hiệu cảnh báo và đến bệnh viện sớm, chúng ta có thể
tự cứu mình. Hàng năm, tại nước ta cũng có hàng nghìn bệnh nhân đã được cứu sống
bằng phương pháp tim mạch can thiệp nhờ đến bệnh viện sớm.
Nhồi máu cơ tim là tình trạng của một phần cơ tim bị hủy khi lượng máu
cung cấp đến phần đó bị giảm sút. Nguyên nhân gây ra nhồi máu cơ tim là do sự
lấp tắc một trong số các động mạch vành nuôi tim, do cục máu đông hình thành
tại chỗ khi mảng xơ vữa bị nứt, vỡ ra. Một số ít các trường hợp khác, nhồi máu
cơ tim là hậu quả của tình trạng co thắt mạch vành làm ngừng trệ quá mức dòng
máu dẫn đến nuôi cơ tim. Đây là một cấp cứu tim mạch nguy hiểm, có thể cướp
đi sinh mạng của người bệnh nếu không được cấp cứu kịp thời. Nếu may mắn
sống sót, người bệnh vẫn có nguy cơ cao bị tái phát nhồi máu cơ tim, suy tim
hoặc đột tử.
Ai dễ bị mắc nhồi máu cơ tim?
Nam giới trên 45 và nữ giới
trên 50 là những người có nguy cơ cao nhồi máu cơ tim. Tuy nhiên, kể cả những
người trẻ cũng có thể có nhồi máu cơ tim nhưng tỷ lệ ít hơn.
Những người trước đó đã có nhồi máu cơ tim thì rất
dễ bị lại nhồi máu cơ tim lần tới.
Những người có tiền sử gia đình có nhồi máu cơ
tim sớm như bố hoặc anh trai có nhồi máu cơ tim dưới 55 tuổi và mẹ hoặc chị gái
có nhồi máu cơ tim dưới 65 tuổi.
Những bệnh nhân có đái tháo đường. Những bệnh
nhân này có nguy cơ nhồi máu cơ tim tương tự như bệnh nhân đã bị nhồi máu cơ
tim.
Những người có các yếu tố
nguy cơ cao như những bệnh nhân rối loạn mỡ máu, huyết áp cao, hút thuốc lá,
béo phì, ít hoạt động thể lực là những người dễ bị nhồi máu cơ tim. Không ít các trường hợp
nhồi máu cơ tim xảy ra ngay cả ở người trẻ hoặc người không hề có bất kỳ yếu tố
nguy cơ nào.
Biểu hiện của bệnh như thế nào?
Triệu chứng điển hình và
thường gặp nhất của nhồi máu cơ tim là cơn đau thắt ngực. Cơn đau ngực thường ở giữa xương ức, với cảm giác đau như bị
đè ép, bóp chặt ở giữa ngực, diễn ra trong khoảng 5-15 phút (kéo dài hơn hẳn so
với cơn đau thắt ngực ổn định thông thường), thường không quá 1 giờ. Cơn đau có thể xuất hiện rồi hết đi và lại đau lại.
Cơn đau cũng có thể xuất hiện ở các vị trí khác như ở sau lưng, trên cổ, trên
hàm hoặc vùng dưới dạ dày. Khó thở thường xuất hiện đi kèm với cơn đau ngực. Một
số triệu chứng khác cũng có thể đi kèm như lạnh toát mồ hôi, nôn hoặc đau đầu
nhẹ. Nhiều trường hợp nhồi máu cơ tim lại biểu hiện như một tình trạng
rối loạn tiêu hoá, hoặc không có triệu chứng gì (nhồi máu cơ tim thầm lặng),
hoặc lại hết sức đột ngột, biểu hiện bằng biến chứng rối loạn nhịp, ngừng tim
hay đột tử... Khi có những
cơn đau ngực như vậy, hãy đến một bệnh viện gần nhất có thể hoặc đến một bệnh
viện có Trung tâm tim mạch can thiệp. Hiện nay, tại nước ta đã có hơn 55 Trung
tâm tim mạch can thiệp trên hơn 20 tỉnh thành trong toàn quốc. Khi nhồi máu cơ
tim, các bạn nên đến những trung tâm tim mạch can thiệp này. Khi có đau ngực,
thậm chí bạn không chắc chắn là cơn đau ngực như miêu tả trên, bạn cũng nên đến
bệnh viện kiểm tra. Chúng ta nên nhớ nên
Cách phòng bệnh Nhồi máu cơ
tim:
Kiểm soát cholesterol máu
(lipid máu): Rối loạn Lipid máu hay Cholesterol máu cao sẽ dễ
khiến cho Cholesterol tích tụ làm thu hẹp lòng mạch vành đây là yếu tố thuận
lợi gây nên nhồi máu cơ tim. Do đó nếu Cholesterol máu cao hay rối loạn Lipid
máu thì sẽ phải sử dụng thuốc điều trị theo chỉ định của bác sĩ, nhằm kiểm soát
quá trình sản xuất Cholesterol máu tại gan. Đồng thời, nên điều chỉnh chế độ ăn
giảm các thực phẩm chứa nhiều Cholesterol, chất béo bão hòa.
Tránh khói thuốc: Khói thuốc vào
phổi một cách chủ động hay thụ động đều gây tổn thương cho thành động mạch.
Thuốc lá sẽ làm cứng các thành động mạch, tạo điều kiện thuận lợi làm tăng
Cholesterol trong máu và làm tăng áp lực động mạch. Do vậy, khói thuốc lá sẽ
làm tăng nguy cơ bị nhồi máu cơ tim lên năm lần, làm tăng nguy cơ tai biến mạch
máu não lên gấp hai lần.
Kiểm soát huyết áp ở mức mục
tiêu: Tăng huyết áp làm tăng nguy cơ hình thành mảng xơ vữa và cục máu
đông, tăng nguy cơ xuất hiện cơn nhồi máu cơ tim. Do đó cần theo dõi chỉ số
huyết áp thường xuyên, nếu chỉ số huyết áp ở mức cao thì cần thay đổi lối sống
theo hướng ăn nhạt hơn, tăng cường rau xanh, quả tươi, không hút thuốc lá, vận
động thể chất đều đặn mỗi ngày… Nếu thay đổi lối sống không giúp hạ huyết áp
thì cần phải dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ.
Tránh để dư thừa trọng lượng cơ
thể: Trong trường hợp trọng lượng cơ thể bình thường, để phòng
tránh mắc bệnh tim mạch, hãy duy trì một chế độ dinh dưỡng đa dạng, hài hòa,
cân đối, hạn chế các loại chất béo bão hòa (nhất là các chất béo có nguồn gốc
động vật), muối, đường, rượu và nên ăn nhiều hoa quả.
Vận động thể lực: Dành tối thiểu 30
phút mỗi ngày đi bộ hoặc chạy bộ, thực hiện mỗi tuần hai buổi tập luyện các
loại hình vận động đòi hỏi sức bền như bơi lội, đạp xe.
Tránh căng thẳng thần kinh: Khi căng thẳng
thần kinh, tim sẽ đập nhanh, nếu hiện tượng này xảy ra đột ngột sẽ càng nguy
hiểm. Điều này đôi khi sẽ làm cơn nhồi máu cơ tim diễn ra đột ngột, tỷ lệ tử
vong cao.
Luôn chủ động đề phòng bệnh tái
phát: Sau cơn nhồi máu, khả năng tái phát cơn vẫn còn và thường
gặp vì nhồi máu chỉ là hậu quả, còn nguyên nhân gây bệnh thì vẫn tồn tại. Do vậy,
để tránh tái phát, ngoài thay đổi nếp sống không tốt như trên, người bệnh còn
phải dùng thuốc phòng thứ phát các bệnh tim mạch suốt đời, quản lý và kiểm soát
tốt các bệnh lý gây ra nhồi máu cơ tim: đưa trị số huyết áp về mức bình thường
bằng thuốc hạ áp, phải kiểm soát được lượng đường trong máu nếu có bệnh tiểu
đường...
Để có trái tim khỏe,
những người có tiền sử bị bệnh nhồi máu cơ tim hay có các yếu tố nguy cơ có thể
dẫn đến bệnh nhồi máu cơ tim đều cần đến bệnh viện để được bác sĩ thăm khám
thường xuyên phát hiện sớm các nguy cơ nhồi máu cơ tim và ngăn chặn những biến
chứng nguy hiểm có thể xảy ra.
Bảo An